Báo Mỹ nói: Muốn tồn tại Việt Nam nên nhìn về phía tây

Bài viết mới đây của trang The Diplomat cho rằng : Biển Đông quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam, nhưng biên giới trên đất liền phía tây là chìa khóa cho an ninh lâu dài của Việt Nam.

 

Tờ này đặt câu hỏi : Trọng tâm của chiến lược an ninh quốc gia của Việt Nam nên nằm ở đâu trong thời đại sức mạnh Trung Quốc đang trỗi dậy? Vào năm 2019, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã phát hành sách trắng quốc phòng nhấn mạnh nhiều đến Biển Đông (SCS). Việt Nam nói rõ rằng họ không hài lòng với các hành vi gây mất ổn định của Trung Quốc ở Biển Đông, viện dẫn “các hành động đơn phương áp đặt dựa trên vũ lực coi thường luật pháp quốc tế và các hoạt động quân sự hóa làm thay đổi hiện trạng, vi phạm chủ quyền của Việt Nam”. Sách trắng cũng cảnh báo rằng “sự cạnh tranh giữa các cường quốc đang ngày càng căng thẳng, khiến Biển Đông [SCS] tại một thời điểm trở thành“ điểm nóng ”, làm tăng nguy cơ xung đột”.

 

Kể từ những năm 1990, Biển Đông đã là trọng tâm trong chiến lược an ninh quốc gia của Việt Nam, với mục tiêu hạn chế sự bành trướng của Trung Quốc. Thật vậy, phần lớn các nỗ lực hiện đại hóa quân đội của Việt Nam kể từ đầu những năm 2000 đều tập trung vào hải quân và không quân nhằm tăng cường khả năng bảo vệ các lợi ích hàng hải của đất nước trong bối cảnh chiến tranh công nghệ cao và tình trạng bất ổn ngày càng tăng ở Biển Đông. Các học giả cũng đã ghi nhận tầm quan trọng của Biển Đông trong tổng thể mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam và cách thức mà sự trỗi dậy của Trung Quốc đã thay đổi cán cân quyền lực trên biển trong khu vực, có ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết các tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình.

 

Tuy nhiên, việc nhấn mạnh Biển Đông như điểm nhấn tiềm tàng của các cuộc xung đột trong tương lai của Việt Nam với Trung Quốc là không đúng chỗ vì hai lý do.  Báo mỹ nhận định:


Thứ nhất, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã làm thay đổi cán cân quyền lực không chỉ trên biển mà còn trên đất liền. Những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm lôi kéo các nước láng giềng của Việt Nam, Campuchia và Lào, bằng những phần thưởng kinh tế cũng nguy hiểm đối với Hà Nội như những hành động gây bất ổn của họ ở Biển Đông. Thứ hai, sự nhấn mạnh như vậy không thể giải thích sự chuyển hướng của Hà Nội sang an ninh hàng hải trong những năm 1990 và phóng đại tầm quan trọng của Biển Đông trong triển vọng chiến lược dài hạn của họ với những ưu tiên quan trọng khác, chẳng hạn như sự liên kết với Campuchia và Lào. Sự tái định hướng sau Chiến tranh Lạnh của Việt Nam đối với Biển Đông dựa trên tiền đề là biên giới trên bộ đã được bảo đảm. Nhưng các động thái của Trung Quốc để giành được Lào và Campuchia về phía mình vn  nên chuyển trọng tâm về phía đất liền.

 

Các quốc gia thường ưu tiên an ninh trên bộ hơn an ninh hàng hải, và chỉ sau khi đã bảo đảm được biên giới trên bộ, họ mới nhìn ra đại dương. Điều này đơn giản là vì việc xây dựng và duy trì lục quân và hải quân cùng một lúc là rất tốn kém, đặc biệt là khi đối thủ là một nước ngang hàng hoặc một quốc gia hùng mạnh hơn. Trung Quốc chỉ bắt đầu mở rộng khả năng hàng hải của mình vào những năm 1980 sau khi biên giới đất liền được bảo đảm và trở thành cường quốc duy nhất ở lục địa Đông Bắc Á, giảm nhu cầu về lục quân quy mô lớn. Ngay cả bây giờ, Trung Quốc không hề lo sợ về an ninh đất liền của mình, vì hầu hết các nước láng giềng của họ đều yếu hơn nhiều. Trong trường hợp của Ấn Độ, dãy Himalaya đóng vai trò như một vùng đệm tự nhiên để ngăn cả hai bên tiến hành một cuộc chiến tranh lớn có thể đe dọa sự tồn vong của Trung Quốc. Nhờ sự cân bằng quyền lực thuận lợi trên bộ, Bắc Kinh đã chuyển trọng tâm sang lĩnh vực hàng hải để tranh giành vị trí ưu thế hàng hải của Hoa Kỳ.

 

Điều tương tự cũng có thể nói về Việt Nam. Hà Nội chỉ nhìn ra biển vào những năm 1990 sau khi đánh bại miền Nam Việt Nam, giải quyết xung đột biên giới và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, đồng thời giải quyết các mối đe dọa an ninh ở Lào và Campuchia sau Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba. Các cuộc phản đối của Hà Nội chống lại việc Trung Quốc chiếm các đảo Hoàng Sa năm 1974 và Bãi đá ở Trường Sa vào năm 1988 là yếu ớt vì một lý do chính đáng: họ bị phân tâm bởi các mối đe dọa an ninh cấp bách khác trên đất liền và họ không có khả năng trang bị một lục quân và hải quân mạnh đồng thời.

 

Việc Việt Nam ưu tiên đất liền so với trên biển là điều dễ hiểu. So với lục địa Đông Dương, Biển Đông thiếu tầm quan trọng chiến lược đối với sự tồn vong của Việt Nam. Cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều cách xa bờ biển của Việt Nam, có nghĩa là mất chúng, tuy có hại cho lợi ích kinh tế của Việt Nam, nhưng không làm tổn hại đến sự tồn vong của Việt Nam theo bất kỳ cách nào. Đáng chú ý, việc Nam Việt Nam mất quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 cho Trung Quốc không có nghĩa là diệt vong , trong khi việc Việt Nam mất Bãi đá ở TS vào tay Trung Quốc năm 1988 không đe dọa sự tồn vong của Hà Nội nhiều, như trận chiến chống lại cuộc xâm lăng của Trung Quốc năm 1979. Báo Mỹ nhấn mạnh.

 


Điều quan trọng là, các đặc điểm đảo nổi  của Trung Quốc và Việt Nam đều quá nhỏ để có thể phòng thủ trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Và ngoài việc sử dụng chúng như một cách để khẳng định chủ quyền, những tính năng đó đã hạn chế việc sử dụng quân sự mà không có khả năng giám sát hàng hải bên ngoài và ít ảnh hưởng đến tự do hàng hải. Mặt khác, Hà Nội hoàn toàn nhận thức được tầm quan trọng của Lào và Campuchia đối với sự tồn vong của mình, điều này đã được thể hiện qua việc sử dụng Đường mòn Hồ Chí Minh để tiến hành các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam và tham vọng giữ hai nước dưới một liên minh Đông Dương và loại khỏi quỹ đạo của các đối thủ khác sau năm 1975.

 

Điểm mấu chốt là Trung Quốc hiện đang đặt ra một mối đe dọa toàn diện đối với Việt Nam, trên cả đất liền và trên biển, khi nước này thúc đẩy Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường và quân sự hóa các đảo ở Biển Đông, cũng như hiện đại hóa hải quân của họ. Là một cường quốc yếu hơn, Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc điều chỉnh các tính toán của mình cho phù hợp và ưu tiên một cách khôn ngoan. Việc Trung Quốc chiếm đóng các khu vực biển SCS mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền không mang lại cho nước này nhiều đòn bẩy hơn trên đất liền. Tuy nhiên, khả năng Trung Quốc tấn công Việt Nam trên bộ mang lại cho nước này nhiều đòn bẩy hơn trên biển vì các khoản đóng góp cao hơn nhiều cho an ninh của Việt Nam. Và điều này cho thấy rằng Việt Nam nên nhìn về phía Tây để tồn tại.

 

Việt Nam có rất ít hy vọng ở phía đông; Nước này không thể chiến đấu và giành chiến thắng trong một cuộc hải chiến chống lại Trung Quốc vì cán cân sức mạnh trên biển đang bị nghiêng hẳn về phía nước này cho dù VN có chi bao nhiêu để hiện đại hóa hải quân và không quân sau những đợt mua sắm lớn từ Nga. Nước này cũng không thể mong đợi Hoa Kỳ đứng ra bảo vệ mình, vì Washington đã duy trì thái độ trung lập đối với các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và không bị ràng buộc bởi một hiệp ước bảo vệ Việt Nam, như trường hợp của Philippines.

 

Tuy nhiên, cán cân quyền lực trên đất liền có lợi hơn cho Việt Nam và chính điều này sẽ quyết định sự sống còn của Việt Nam. Việt Nam có kinh nghiệm chiến đấu trong các cuộc chiến lớn trên bộ chống lại những kẻ thù lớn hơn và có cơ hội vô hiệu hóa các lợi thế quân sự về số lượng và chất lượng của Trung Quốc hơn là trên biển. Cuộc chiến ở Ukraine đã cho thấy rằng một cường quốc nhỏ có thể ngăn chặn các cuộc tấn công của một cường quốc lớn bằng cách sử dụng chiến lược con nhím. Thay vì triển khai các thiết bị quân sự hiện đại, Việt Nam có thể chỉ cần mua sắm các hệ thống vũ khí giá rẻ và sản xuất hàng loạt, dễ cất giấu và dễ sử dụng để làm tăng đáng kể chi phí cho các cuộc tấn công mặt đất của Trung Quốc.

 

Địa hình miền núi phía Bắc Việt Nam và Lào cũng nên bổ sung cho chiến lược “con nhím” của Hà Nội. Trong cuộc xâm lược của Trung Quốc năm 1979, Việt Nam đã thành công nhờ vào lực lượng dân quân và đặc công, những người đã sử dụng đường hầm và chiến xa trong rừng để ngăn chặn các cuộc tấn công của Trung Quốc dọc biên giới trong khi quân đội chính quy chờ đợi phía sau chiến tuyến để đối đầu với quân Trung Quốc đang kiệt sức.

 

Để Việt Nam có thể răn đe thành công Trung Quốc, cần đảm bảo rằng Trung Quốc không thiết lập bất kỳ tiền đồn quân sự nào ở Lào và Campuchia cho phép Bắc Kinh tiến hành một cuộc xâm lược nhiều mặt ngoài biên giới Trung - Việt. Điều này giải thích tại sao Hà Nội cảnh giác với sự tham gia của Trung Quốc vào việc tân trang một căn cứ hải quân ở Campuchia và các khoản đầu tư của Trung Quốc vào nước Lào đang lâm vào cảnh nợ nần. Việc Sri Lanka chấp nhận tiếp đón một tàu nghiên cứu của Trung Quốc bất chấp sự phản đối của Ấn Độ là cảnh báo cho Việt Nam rằng Bắc Kinh có thể tận dụng sức mạnh kinh tế của mình để phục vụ các mục tiêu an ninh ở Lào. Vì vậy, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong việc thu hút sự ủng hộ về kinh tế và hỗ trợ chính trị của hai quốc gia này.

 

Các đối tác của Việt Nam trong Đối thoại An ninh Tứ giác - Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ - không chỉ nên ủng hộ nỗ lực cân bằng chống lại Trung Quốc ở Biển Đông mà còn ở Lào và Campuchia. Và sự hỗ trợ không nhất thiết phải là quân sự. Bộ tứ có thể cung cấp hỗ trợ kinh tế và cơ sở hạ tầng để làm suy yếu sức hấp dẫn từ các phần thưởng kinh tế của Trung Quốc, một nhiệm vụ mà một mình Việt Nam không thể đạt được. Điều quan trọng, Việt Nam cần duy trì quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc bằng cách cam kết đưa ra giải pháp ngoại giao cho các tranh chấp ở Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế. Lịch sử đã chỉ ra rằng nếu mối quan hệ tổng thể Việt Nam - Trung Quốc tốt đẹp, cả hai bên sẽ sẵn sàng giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.

 

Biển Đông chắc chắn quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam, nhưng Lào và Campuchia sẽ quyết định sự tồn tại lâu dài của nó. Và quan trọng, bảo vệ an ninh đất đai của Việt Nam trước hết là cách tốt nhất để nước này bảo vệ chủ quyền của mình ở Biển Đông. Tiếp tục cân bằng chống lại Trung Quốc trên biển thông qua hiện đại hóa hải quân và không quân là một bước đi sai hướng nếu Trung Quốc ngày càng gây ra mối đe dọa trên bộ. Do đó, Việt Nam cần tăng cường quân đội và đặt Lào và Campuchia trở lại vị trí trung tâm trong chiến lược an ninh quốc gia của mình. Một chiến lược lớn cho Việt Nam nên bắt đầu bằng một câu hỏi đơn giản: Việt Nam có đủ an toàn trên bộ để mở rộng ra biển không? Nếu Trung Quốc quyết định thử nghiệm Việt Nam trên bộ, thì Hà Nội sẽ có thể vượt qua thử nghiệm, vì họ đã thực hiện thành công rất nhiều lần trong 2.000 năm qua.

0 Comments