Ngân hàng Thế giới mới đây đã công bố một báo cáo cho biết nền kinh tế Việt Nam tương đối ổn định và đang phục hồi mạnh mẽ, trong nửa đầu năm nay, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này được hỗ trợ bởi sự ổn định trong lĩnh vực sản xuất chế biến và sự phục hồi mạnh mẽ trong lĩnh vực dịch vụ. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam dự kiến sẽ tăng 7,5% trong năm nay và 6,7% vào năm 2023.
Báo cáo cho rằng bất chấp môi trường toàn cầu đầy thách thức,
triển vọng kinh tế Việt Nam vẫn lạc quan. Báo cáo cho rằng bất chấp sự bất ổn
gia tăng, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trên đường phục hồi. Do tỷ lệ bao phủ
tiêm chủng Covid-19 ở mức cao nên tính đến hết tháng 12/2021, đã có khoảng 80%
dân số được tiêm chủng đầy đủ, tạo điều kiện cho việc mở lại toàn bộ. Tỷ lệ
tăng trưởng là 5,2%, lần 1 và 2 quý của năm 2022 sẽ tăng lần lượt là 5,1% và
7,7%.
Báo cáo chỉ ra rằng nền kinh tế Việt Nam mặc dù phục hồi
nhanh nhưng vẫn thiếu tính toàn diện và cân đối, đặc biệt là ngành dịch vụ vẫn
đang trong đà phục hồi. Các động lực tăng trưởng dự kiến sẽ chuyển từ nhu cầu
bên ngoài sang nhu cầu trong nước và từ sản xuất sang dịch vụ. Sản xuất công
nghiệp dự kiến sẽ chậm lại do nhu cầu bên ngoài yếu. Lạm phát dự kiến sẽ
tăng lên 4% vào năm 2023 trước khi giảm xuống 3,3% vào năm 2024. Về đối ngoại,
do xuất khẩu vẫn ổn định, du lịch quốc tế đang dần phục hồi, ngoại hối đủ tiêu
chuẩn nên tài khoản vãng lai dự kiến sẽ trở lại thặng dư nhỏ trong trung hạn,
chiếm khoảng 0,2% đến 0,6% GDP.
Báo cáo cho rằng trong ngắn hạn, Việt Nam cần thúc đẩy toàn
diện các chương trình hỗ trợ phát triển và khôi phục kinh tế bằng cách đẩy
nhanh tiến độ thực hiện các dự án khác nhau. Kế hoạch phục hồi dự kiến sẽ
tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ kỹ thuật số, một động thái sẽ
giúp thúc đẩy nhu cầu trong nước phục hồi trong ngắn hạn đồng thời thúc đẩy tốc
độ tăng trưởng tiềm năng dài hạn của Việt Nam. Đồng thời, trong bối cảnh rủi ro
lạm phát gia tăng, Việt Nam cần áp dụng chính sách tiền tệ linh hoạt hơn và
tăng cường phòng ngừa rủi ro tài chính để nâng cao khả năng chống chịu của hệ
thống ngân hàng. Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường đầu tư công và tư vào khí hậu
để nâng cao khả năng phục hồi kinh tế.
Báo cáo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả
lao động đối với tăng trưởng kinh tế dài hạn. Trong đó, đổi mới giáo dục đại học
là chìa khóa để nâng cao hiệu quả lao động của Việt Nam, giúp Việt Nam đạt được
mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2035 và nước có thu
nhập cao vào năm 2045.
Hiện tại, năm học trung bình của học sinh Việt Nam là 10,2
năm, chỉ đứng sau Singapore trong các nước ASEAN. Nhưng các ngành giáo dục đại
học và đào tạo nghề của Việt Nam vẫn chưa tốt như mong đợi. Các công ty vẫn gặp
nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nhân tài có năng lực lãnh đạo, quản lý hoặc
chuyên môn kỹ thuật. Theo Khảo sát Kỹ năng và Doanh nghiệp năm 2019 do Ngân
hàng Thế giới thực hiện, 73% doanh nghiệp Việt Nam được khảo sát cho biết họ gặp
khó khăn trong việc tuyển dụng lực lượng lao động có kỹ năng lãnh đạo và quản
lý; 68% doanh nghiệp cho rằng họ có kỹ năng chuyên môn trong việc tuyển dụng
các vị trí cụ thể. Khó khăn về lực lượng lao động có tay nghề cao. Năm 2019,
10,2% dân số từ 25 tuổi trở lên có bằng cử nhân hoặc tương đương. Tỷ lệ nhập học
đại học của Việt Nam là 28,6%, thấp hơn so với mặt bằng chung của các nước tham
gia. Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu sinh viên đại học, về lâu dài, để đạt tỷ lệ
nhập học của các nước có thu nhập trung bình và cao, số sinh viên đại học phải
tăng lên 3,8 triệu. Việt Nam cần nhiều nguồn nhân lực có kỹ năng hơn để thúc đẩy
chuyển đổi kỹ thuật số, được thúc đẩy bởi tri thức và hiệu quả lao động, và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế liên tục của đất nước.
Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra những khó khăn và thách thức mà
nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt. Chính phủ Việt Nam cũng nắm rõ điều này, tỷ
lệ nợ xấu của các ngân hàng cao, cơ cấu tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt
là tín dụng bán lẻ và đầu tư trái phiếu doanh nghiệp tăng nhanh. Thu hút vốn nước
ngoài chưa phục hồi quy mô trước đại dịch có thể ảnh hưởng đến tài khoản vãng
lai, dự trữ ngoại hối, tỷ giá hối đoái và khả năng thu hút các công ty công nghệ
cao trong trung và dài hạn.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cho rằng lạm phát, lãi suất,
xu hướng tỷ giá hối đoái và nguy cơ suy thoái kinh tế thế giới là thách thức lớn
nhất đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Các yếu tố bên
ngoài như giá tăng, xăng dầu và nguồn cung nguyên liệu thô khó dự đoán có thể
làm trầm trọng thêm áp lực lạm phát và tăng chi phí sản xuất. Nếu không có biện
pháp xử lý kịp thời sẽ ảnh hưởng lớn đến ANTT các lĩnh vực liên quan.
Bộ Tài chính Việt Nam cho biết họ đã lên kế hoạch tiếp tục đề
xuất cắt giảm thuế để giảm giá bán lẻ xăng trong nước nếu giá dầu tăng trên 100
USD / thùng.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cho biết, nửa cuối năm nay sẽ
tập trung tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo cán cân
thanh toán đồng thời ngăn đà phục hồi suy giảm. Bộ này mong muốn nền kinh tế sẽ
tăng trưởng khoảng 7% vào năm 2022, với lạm phát dưới 4% và tăng trưởng tín dụng
khoảng 14%. (Phóng viên tờ Kinh tế Nhật báo Guan Jinyong tại Hà Nội)
0 Comments