Mới đây trên trang Thediplomat đã cho đăng tải bài viết nói về nhu cầu sở hữu vũ khí hạt nhân của Việt Nam để chống lại Trung Quốc. Bài viết đã đưa ra những lập luận về việc nên hay không nên sở hữu vũ khí hạt nhân , nếu có thì sẽ tác động ntn và không thì tác động ra sao. Tờ báo cũng tiết lộ 40 năm trước Việt Nam đã từng có ý định và đứng trước cơ hội sở hữu vũ khí hạt nhân. Nhưng Hà Nội đã bỏ qua cơ hội đó và bước vào nhóm các nước phi hạt nhân hóa.
Sau đây kênh sẽ dịch lại nội dung bài viết để cho các bạn hiểu
rõ hơn về vấn đề này.
Bài báo viết:
Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Việt Nam luôn ở trong thế
bấp bênh, trước các mối đe dọa từ Trung Quốc ngày càng gia tăng trên cả đất liền
và trên biển. Trên cơ sở tương tự, Việt Nam có rất ít cơ hội sánh ngang với sức
mạnh quân sự của Trung Quốc. Do đó, việc một số học giả cho rằng Việt Nam nên
theo đuổi vũ khí hạt nhân để cân bằng với Trung Quốc là điều hiển nhiên. Vũ khí
hạt nhân là sự cân bằng tuyệt vời cho các quốc gia yếu so với các quốc gia mạnh,
và sẽ cho phép Việt Nam ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc một khi nước này
không còn có thể tham gia vào một cuộc chạy đua vũ trang thông thường với Trung
Quốc.
Tuy nhiên, trong khi lập luận này có vẻ hợp lý, nó lại bỏ qua
lịch sử về cách Việt Nam nhận thức vai trò của vũ khí hạt nhân trong chiến lược
an ninh của mình, đặc biệt là trong mối quan hệ với Trung Quốc. Việt Nam đã có
lựa chọn hạt nhân vào cuối những năm 1970 và 1980 theo liên minh với Liên Xô,
trong đó Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam tên lửa có khả năng hạt nhân, mặc dù
bản thân không phải đầu đạn hạt nhân. Nhưng Liên Xô có thể cung cấp cho Việt
Nam các đầu đạn nếu họ quyết định và nếu Việt Nam chấp nhận chúng. Moscow thậm
chí còn xây dựng các hầm trú ẩn cho các tàu ngầm hạt nhân của mình ở Vịnh Cam
Ranh, nơi mà nước này dựa vào để tuần tra Biển Đông. Cuối cùng, Việt Nam đã chọn
không sở hữu các đầu đạn hạt nhân của Liên Xô vì một lý do đơn giản: không muốn
làm tổn hại mối quan hệ của mình với Trung Quốc vào thời điểm cả hai nước đang
trong quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào cuối những năm 1980.
Để đưa ra trường hợp không lưu trữ vũ khí hạt nhân, Việt Nam
đã xem xét Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác năm 1978 với Liên Xô và cho rằng hiệp ước
này không có bất kỳ điều khoản nào nói rằng Moscow sẽ được phép đồn trú đầu đạn
hạt nhân ở Vịnh Cam Ranh. Cũng cần nhắc lại rằng liên minh Liên Xô-Việt Nam đã
mất một số gắn kết kể từ giữa những năm 1980 do sự suy giảm kinh tế của Liên Xô
và những nỗ lực bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Nếu Việt Nam quan tâm đến
vũ khí hạt nhân để răn đe Trung Quốc bằng mọi giá, thì Việt Nam đáng lẽ phải chấp
nhận những vũ khí đó khi nền kinh tế của họ không còn đủ khả năng duy trì một đội
quân quy ước mạnh hàng triệu người. Quyết định phi hạt nhân hóa của Việt Nam có
ý nghĩa sống còn đối với việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc
vào năm 1991.
Sau khi từ chối tiếp nhận vũ khí hạt nhân của Liên Xô và việc
Liên Xô rút quân đáng kể khỏi Vịnh Cam Ranh, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước về
Khu vực cấm vũ khí hạt nhân Đông Nam Á vào năm 1995, theo đó các bên ký kết cam
kết không “phát triển, sản xuất hoặc mua lại, sở hữu hoặc có quyền kiểm soát vũ
khí hạt nhân; đóng hoặc vận chuyển vũ khí hạt nhân bằng bất kỳ phương tiện nào;
hoặc thử nghiệm hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân ”. Lý do gia nhập hiệp ước là chiến
lược - nó hy vọng hiệp ước sẽ hạn chế các lựa chọn quân sự của Trung Quốc trong
khu vực. Sau đó, Việt Nam đã tham gia và phê chuẩn Hiệp ước Cấm Thử nghiệm Toàn
diện lần lượt vào năm 1996 và 2006, khẳng định cam kết của Hà Nội đối với việc
không phổ biến vũ khí hạt nhân. Việt Nam cũng là thành viên của Hiệp ước Không
phổ biến vũ khí hạt nhân từ năm 1982. Không quá lời khi khẳng định rằng quyết định
của Việt Nam không sở hữu vũ khí hạt nhân của Liên Xô và tham gia vào khu vực
phi hạt nhân Đông Nam Á là điều cần thiết để tái hòa nhập với quốc tế. cộng đồng,
một động thái mà Triều Tiên cho đến nay vẫn chưa thực hiện được.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam trở thành hạt nhân về cơ bản sẽ
làm sáng tỏ chính sách đối ngoại đa dạng hóa và đa phương hóa thời hậu Chiến
tranh Lạnh của Hà Nội. Theo đuổi vũ khí hạt nhân sẽ ngay lập tức làm hoen ố chiến
lược tăng trưởng dẫn đầu về xuất khẩu của Hà Nội do các lệnh trừng phạt quốc tế
có thể xảy ra và sẽ hạ cấp vị thế quốc tế của nước này xuống vị thế của một quốc
gia như Triều Tiên. Nó cũng sẽ làm tổn hại đến những thách thức pháp lý của Hà
Nội đối với các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, vì Việt Nam cũng sẽ vi phạm
cam kết đối với nhiều điều ước quốc tế vào thời điểm mà họ cần những hiệp ước
đó nhất là về phía mình. Và những viễn cảnh này không hề viễn vông. Việt Nam đã
thực sự là một quốc gia chỉ 40 năm trước đây khi họ đang dự tính sở hữu vũ khí
hạt nhân của Liên Xô.
Hơn nữa, không rõ liệu có vũ khí hạt nhân sẽ làm tăng an ninh
của Việt Nam hay không. Việt Nam không bao giờ nên chống đối Trung Quốc vì an
ninh và thịnh vượng của nước này phụ thuộc vào mối quan hệ tốt đẹp Việt -
Trung. Đối với Việt Nam, đi vào con đường hạt nhân sẽ là vấn đề tự vệ; nhưng đối
với Trung Quốc, đó sẽ là một tín hiệu mạnh mẽ cho thấy Việt Nam đang có ý đồ
gây hấn. Vũ khí hạt nhân chỉ là nguyên nhân của sự ổn định khi cả hai quốc gia
đều có khả năng tấn công lần thứ hai được bảo đảm, điều mà Việt Nam sẽ không có
trong một thời gian dài sau khi quyết định phi hạt nhân hóa. Trung Quốc sẽ
không ngại tiến hành các cuộc tấn công ngoại khoa nhằm vào Việt Nam để loại bỏ
nước này khỏi chương trình hạt nhân sơ khai và ngăn Việt Nam có khả năng tấn
công lần thứ hai, như Israel đã làm với Syria năm 2007.
Điều quan trọng là, ngay cả khi Việt Nam có thành công khả
năng tấn công lần thứ hai với chi phí cao, thì cũng không chắc liệu Việt Nam có
thể duy trì khả năng đó về lâu dài hay không nếu xét đến nền tảng kinh tế và
công nghệ yếu hơn. Trung Quốc luôn có thể thực hiện một cuộc tấn công đầu tiên
tuyệt vời vì tên lửa của họ chính xác hơn và nhiều hơn, và chúng được hỗ trợ bởi
khả năng giám sát vượt trội. Để bảo vệ khả năng tấn công lần thứ hai, Trung Quốc
đã quản lý kho vũ khí hạt nhân của mình trong ít nhất 50 năm trong khi Việt Nam
chưa có kinh nghiệm quản lý kho vũ khí hạt nhân của mình, điều này cũng sẽ làm
tăng nguy cơ tai nạn nếu Việt Nam quyết định ko phi hạt nhân hóa. Điều này nhằm
phản bác lại lập luận rằng việc có kho vũ khí hạt nhân có thể cân bằng sự chênh
lệch sức mạnh khổng lồ giữa Việt Nam và Trung Quốc và giải phóng Việt Nam khỏi
một cuộc chạy đua vũ trang thông thường với Trung Quốc.
Ngay cả khi giả định rằng Việt Nam có khả năng duy trì khả
năng tấn công lần thứ hai, thì việc ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc trên
Biển Đông bằng vũ khí hạt nhân là không đáng tin cậy. Điều này là do những hòn
đảo đó không có ý nghĩa chiến lược đối với sự tồn vong của Việt Nam và các cuộc
tấn công của Trung Quốc nhằm vào các đảo của Việt Nam có thể sẽ giảm xuống dưới
ngưỡng có thể lấy lý do cho một cuộc tấn công hạt nhân. Và ngay cả khi Trung Quốc
tiến hành một cuộc xâm lược trên bộ vào Việt Nam, thì Hà Nội vẫn có thể đẩy lùi
nó và phát tín hiệu đáng tin cậy cho Trung Quốc và không cần vũ khí hạt nhân,
giống như đã từng làm vào năm 1979. Nói tóm lại, vũ khí hạt nhân sẽ vừa không cần
thiết vừa có hại cho Việt Nam.
Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả các nước và không bao giờ
gây thù oán với bất kỳ ai”. Để một chính sách như vậy hoạt động, cần phải có
cam kết không phổ biến vũ khí hạt nhân. Việt Nam đã nói không với vũ khí hạt
nhân trong những năm 1980 khi nước này đang ở vị thế tồi tệ hơn hiện tại; như vậy,
họ có thể và nên làm như vậy một lần nữa.
Các bạn thân mến ! Theo như ý bài báo thì việc theo đuổi một
biện pháp răn đe hạt nhân chống lại sự xâm lược của Trung Quốc sẽ làm suy yếu
danh tiếng quốc tế của Việt Nam và gây bất ổn cho mối quan hệ với Bắc Kinh.
Nếu bây giờ chọn theo con đường hạt nhân để cân bằng cán cân
quân sự với TQ sẽ khiến cho Việt Nam phải hứng chịu những trừng phạt tời từ quốc
tế và thành tựu kinh tế 20 năm qua sẽ phút chốc biến mắt. Đây là một nhận định
chí phải của tờ báo này.
0 Comments